Cổng
Thông tin điện tử Chính phủ trân trọng giới thiệu bài viết “Thành tựu
của ASEAN và sự tham gia của Việt Nam trong Trụ cột Cộng đồng kinh tế
của ASEAN” của Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần
Tuấn Anh nhân dịp 23 năm Việt Nam gia nhập ASEAN và 51 năm thành lập
ASEAN.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh. Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Năm
2018 là thời điểm kỷ niệm 11 năm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO), 20 năm gia nhập Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái
Bình Dương (APEC), đồng thời cũng đặt dấu mốc kỷ niệm 23 năm Việt Nam
chính thức gia nhập ASEAN và 51 năm tổ chức này được thành lập và không
ngừng hợp tác, phát triển để hình thành nên Cộng đồng ASEAN vào năm
2015.
ASEAN
được thành lập vào ngày 8-8-1967 tại Bangkok với mục tiêu tập hợp lực
lượng chính trị nhằm xây dựng, duy trì hợp tác phát triển kinh tế, chia
sẻ thịnh vượng chung và bảo đảm hòa bình, ổn định trong vấn đề an ninh
và của nền kinh tế khu vực Đông Nam Á. Theo đó, ASEAN được sáng lập bởi 5
nước là: Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan thông
qua việc ký kết Tuyên bố ASEAN. Sau đó, trong quá trình mở rộng của
ASEAN, Brunei gia nhập ngày 8-1-1984, Việt Nam ngày 28-7-1995, Lào và
Myanmar ngày 23-7-1997 và Campuchia ngày 30-4-1999.
Sau
51 năm thành lập, hợp tác và không ngừng phát triển, ASEAN hiện bao gồm
10 thành viên trong khu vực Đông Nam Á, một thị trường đứng thứ 3 châu Á
với hơn 650 nghìn dân, chiếm 8,59% tổng dân số thế giới, GDP bình quân
đầu người đạt 4.305 USD, dự kiến con số này sẽ tăng gấp đôi vào năm 2030
đưa ASEAN thành cộng đồng kinh tế đứng thứ 7 trên thế giới, với tổng
GDP là 2.766 tỷ USD.
Qua
hơn 50 năm kiên trì hợp tác và phát triển, ngoài các trụ cột hợp tác về
An ninh - Chính trị, Văn hóa - Xã hội, ASEAN cũng đã và đang tập trung
vào hợp tác kinh tế thông qua việc thành lập Cộng đồng Kinh tế, coi đây
là 1 trong 3 trụ cột quan trọng nhất, nhằm hỗ trợ nhau cùng phát triển;
xây dựng một cộng đồng ASEAN vững mạnh về kinh tế; lành mạnh, đa màu sắc
về văn hóa và ổn định về an ninh, chính trị; phồn thịnh về an sinh xã
hội, dù còn có sự khác biệt về tôn giáo về trình độ phát triển, về cơ sở
hạ tầng, công nghệ thông tin… song 10 nước ASEAN đã coi nhau như anh em
một nhà, để hỗ trợ, giúp đỡ và cùng nhau phát triển về mọi mặt. Sự phát
triển và hợp tác vững chắc của ASEAN đã góp một phần không nhỏ vào
thành tựu chung của thế giới trong thiên niên kỷ mới nói chung, nâng cao
vị thế của các nước ASEAN trên trường quốc tế nói riêng, cũng như tạo
tiền đề cho các khu vực khác đẩy mạnh hợp tác, coi ASEAN như “người tìm
đường” (pathfinder) trong quá trình đẩy mạnh hợp tác và liên kết kinh tế
khu vực. Ngoài hợp tác nội khối, ASEAN cũng tăng cường liên kết, hợp
tác với nhiều đối tác ngoại khối quan trọng như ASEAN+3, ASEAN+6… trong
nhiều lĩnh vực về cơ sở hạ tầng, thương mại hàng hóa, thương mại dịch
vụ, công nghệ 4.0, chuỗi giá trị và tăng cường kết nối toàn diện về thể
chế, hạ tầng và con người.
Một số thành tựu quan trọng trong trụ cột hợp tác kinh tế mà ASEAN đã đạt được trong những năm qua có thể kể đến như:
Về thương mại hàng hóa,
theo cam kết của Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA), các nước
ASEAN đã tiến rất gần đến mục tiêu xóa bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan
đối với các nước ASEAN-6 (5 nước sáng lập và Brunei), 99,2% số dòng thuế
đã được xóa bỏ, trong khi 90,9% số dòng thuế của các nước gia nhập sau
là Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam (gọi tắt là các nước CMLV) đã
được xóa bỏ tính tới năm 2017. Dự kiến, tới hết năm 2018, tỉ lệ xóa bỏ
thuế quan trong toàn ASEAN sẽ đạt 98,67%. Ngoài tự do hóa thuế quan, các
nước ASEAN cũng đang triển khai các biện pháp tạo thuận lợi cho hoạt
động thương mại của các doanh nghiệp như dự án thí điểm cơ chế tự chứng
nhận xuất xứ, cơ chế hải quan một cửa... Các thỏa thuận công nhận lẫn
nhau (MRA) về tiêu chuẩn trong các lĩnh vực điện-điện tử, cao su, thực
phẩm chế biến sẵn, dược phẩm và thiết bị y tế… Ngoài ra, Việt Nam và các
nước ASEAN đã thực thi Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau (MRA) về điện và
điện tử, về kiểm tra thông lệ sản xuất thuốc tốt; đã ký MRA về nghiên
cứu tương đương sinh học, về hệ thống giám định và chứng nhận an toàn
thực phẩm đối với thực phẩm đã qua chế biến nhằm tạo nên một khu vực sản
xuất thống nhất trong ASEAN,
Về thương mại dịch vụ,
tự do hóa thương mại dịch vụ là một trong những ưu tiên quan trọng
trong Cộng đồng kinh tế ASEAN. Quá trình tự do hóa thương mại dịch vụ
giữa các nước ASEAN được thực hiện trong khuôn khổ của Hiệp định khung
ASEAN về dịch vụ (AFAS), ký kết vào năm 1995 và tiếp tục được đàm phán
nhằm tự do hóa dần dần thương mại dịch vụ giữa các nước ASEAN. Hiện nay,
các nước ASEAN đang đặt mục tiêu sẽ hoàn tất đàm phán và ký kết Nghị
định thư thực hiện Gói cam kết dịch vụ thứ 10 thuộc Hiệp định khung
ASEAN về dịch vụ (AFAS-10) trong năm 2018.
Về đầu tư,
trước bối cảnh các khu vực cũng như các nước ASEAN ngày càng phải chịu
sức cạnh tranh mạnh mẽ về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các
nước đang phát triển khác trên thế giới cũng như trong khu vực, ngày
15-12-1995 tại Thái Lan, Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 5 của ASEAN đã
quyết định thành lập Khu vực đầu tư ASEAN (ASEAN Investment Area - gọi
tắt là AIA), nhằm tăng cường thu hút vốn và khả năng cạnh tranh để
khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực ASEAN, nơi có nguồn
lao động trẻ, rẻ và dồi dào. Sau nhiều nỗ lực thực thi Khu vực đầu tư
ASEAN và Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA), trong năm 2017, các
nước ASEAN đã hoàn tất việc ký kết Nghị định thư thứ hai sửa đổi ACIA và
tiến tới sớm hoàn thành ký kết Nghị định thư thứ ba sửa đổi Hiệp định
này để tăng cường luồng đầu tư trong khu vực Đông Nam Á.
Về hợp tác ngoại khối, cho tới nay, ASEAN đã ký kết và thực hiện 6 hiệp định thương mại tự do (FTA) bao gồm: FTA nội khối ASEAN (AFTA); và 5 FTA giữa ASEAN với các đối tác Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và New Zealand.
Vào tháng 11-2017, bên lề Hội nghị Cấp cao ASEAN 31, các nước ASEAN
cũng đã ký kết Hiệp định thương mại tự do ASEAN-Hongkong, Trung Quốc và
Hiệp định đầu tư ASEAN-Hongkong, Trung Quốc. Ngoài ra, hiện tại các nước
thành viên ASEAN cũng đang đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện
khu vực (RCEP) với 6 nước đối tác: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và New Zealand
nhằm đạt được một hiệp định FTA toàn diện với mức độ cam kết cao hơn
các FTA hiện nay giữa ASEAN với các nước đối tác này.
Về thành tựu phát triển kinh tế,
trong hơn 50 năm qua, tổng thương mại hàng hóa của các nước ASEAN với
thế giới đã tăng từ 10 tỷ USD/năm lên mức 2.575 tỷ USD vào năm 2017.
Tổng thương mại dịch vụ tăng từ mức 140 tỷ USD năm 1999 lên mức kỷ lục
681 tỷ USD năm 2016. Theo số liệu thống kê sơ bộ, thương mại hàng hóa
của ASEAN năm 2017 tăng ở mức 14.2% so với năm trước, cao hơn mức tăng
trưởng 11,6% của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong đó, Trung Quốc là
đối tác thương mại hàng đầu của ASEAN với tổng giá trị kim ngạch thương
mại hàng hóa đạt 436,8 tỷ USD, chiếm 17,1%.
ASEAN
đã trở thành một điểm đến hấp dẫn của đầu tư nước ngoài, với dòng vốn
FDI năm 2017 đạt 137 tỷ USU, tăng mạnh so với mức 22 tỷ USD năm 2000 và
1/3 tỷ USD năm 1967. Đầu tư nội khối ASEAN cũng tăng từ mức 5,6% lên
24,7% năm 2016. Lĩnh vực dịch vụ chiếm tỷ lệ thu hút FDI lớn nhất vào
ASEAN, tăng từ 50,8% năm 1999 lên 80,8% năm 2016, tiếp đến là lĩnh vực
công nghiệp, năng lượng và nông nghiệp.
Đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN chủ yếu có nguồn gốc từ các nước đối
thoại như Liên minh châu Âu (EU) tăng 46% lên 30,5 tỷ USD, Nhật Bản tăng
từ 7,9 tỷ USD năm 2015 lên 23,8 tỷ USD năm 2016, Trung Quốc tăng 44%
lên 9,2 tỷ USD, Hàn Quốc tăng 3% lên 6 tỷ USD và Australia tăng 77% lên
3,4 tỷ USD. Trong khi các nhà đầu tư Nhật Bản quan tâm đến lĩnh vực chế
tạo công nghiệp với mức 23,8 tỷ USD, các nhà đầu tư FDI của Trung Quốc
tập trung vào tài chính, bán buôn và bán lẻ, vận tải và bất động sản,
các nhà đầu tư Australia, EU và Hoa Kỳ quan tâm đến dịch vụ, chủ yếu là
dịch vụ tài chính. Đầu tư nội khối cũng tăng lên mức kỷ lục là 24 tỷ USD
năm 2016, chiếm ¼ dòng vốn FDI vào khu vực.
So
với thời điểm bắt đầu tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN năm 1996
cho đến nay, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN đã
tăng xấp xỉ 7,7 lần, từ 5,91 tỷ USD năm 1996 lên 45,23 tỷ USD tại thời
điểm tháng 11-2017, trong đó xuất khẩu hàng hóa của ta vào ASEAN tăng
gần 12,4 lần, từ 1,6 tỷ USD năm 1996 lên 19,9 tỷ USD. Tính tới hết tháng
6-2018, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN là 28,1 tỷ
USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu là 12,2 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu
là 15,9 tỷ USD.
Tính
đến năm 2018, tỷ lệ xóa bỏ thuế quan của Việt Nam trong khuôn khổ Hiệp
định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) là 98%. Như vậy, trong số 10 FTA
mà Việt Nam đang thực hiện, FTA với nội khối ASEAN (AFTA) có tỷ lệ xoá
bỏ thuế quan cao nhất là 98% với lộ trình thực hiện là 19 năm (cá
biệt, một số ít mặt hàng có lộ trình là 25 năm).
Năm
2018, Singapore là nước Chủ tịch ASEAN đã đề ra ưu tiên trong hợp tác
ASEAN gồm: i) Hiệp định ASEAN về thương mại điện tử và hội nhập số; ii)
Thành lập mạng lưới sáng tạo ASEAN; iii) Đưa vào vận hành cơ chế tự
chứng nhận xuất xứ toàn ASEAN và cơ chế một cửa ASEAN; iv) Ký kết Hiệp
định thương mại dịch vụ ASEAN; v) Tăng cường hiệp định đầu tư toàn diện
ASEAN; vi) Tuyên bố ASEAN về du lịch hành trình trên biển; vii) Tăng
cường hợp tác và thương mại về khí tự nhiên hoá lỏng trong ASEAN; viii)
Ký Biên bản ghi nhớ với Cơ quan Năng lượng Tái tạo Quốc tế; ix) Xây dựng
Quy tắc ứng xử về xây dựng xanh của ASEAN và x) Tiếp tục đẩy mạnh quan
hệ đối ngoại của ASEAN.
Để
thực hiện các mục tiêu trên của ASEAN trong năm 2018 và cũng nhằm chuẩn
bị cho năm 2020 khi Việt Nam là nước Chủ tịch ASEAN, Việt Nam sẽ tiếp
tục phối hợp chặt chẽ với các nước ASEAN khác triển khai Kế hoạch Hành
động Chiến lược AEC 2025 (SAP); thống nhất các nội dung còn vướng mắc
trên cơ sở bảo đảm Hiệp định RCEP mang lại kết quả cân bằng về lợi ích,
có tính đến sự chênh lệch về trình độ phát triển của tất cả các nước và
đề nghị các nước đối tác của ASEAN điều chỉnh tham vọng xuống mức khả
thi cho tất cả các bên nhằm kết thúc đàm phán hiệp định này trong
năm 2018; phối hợp với các nước ASEAN tiếp tục rà soát, thực thi cam kết
trong các FTA ASEAN+1, trong đó có việc rà soát Hiệp định AANZFTA giai
đoạn 2 và tích cực thực hiện các chương trình làm việc/hợp tác với các
đối tác khác của ASEAN. Trong năm 2018, Việt Nam cũng sẽ đảm nhiệm vai
trò chủ tịch Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế CLMV lần thứ 10 được tổ chức bên
lề Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN tại Singapore.
Theo
số liệu của Bộ Công Thương, trong thời điểm 6 tháng đầu năm 2018, mức
độ tận dụng C/O ưu đãi trong xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam đối
với các FTA ASEAN và ASEAN cộng ở mức độ trung bình với Trung Quốc
(23%), Nhật Bản (29%), mức độ khá với Australia- New Zealand (30%),
ASEAN (33%), Hàn Quốc (33%) và ở mức độ tốt với Ấn Độ (44%). Về phía
doanh nghiệp của ta, các doanh nghiệp FDI và các tập đoàn lớn có xu
hướng vận dụng ưu đãi tốt hơn doanh nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Xét từ góc độ ngành, các ngành dệt may, da giày, cơ khí, nông sản
chế biến vận dụng ưu đãi tương đối tốt để xuất khẩu.
Quá
trình hội nhập ASEAN của Việt Nam đã được triển khai hiệu quả, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong hơn 20 năm qua. Tuy nhiên, để tận
dụng tốt các cơ hội của việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN đến năm
2025 và bảo đảm ta có thể hội nhập một cách chủ động, tích cực và phù
hợp với lợi ích của cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình cạnh khu vực
và quốc tế, khai thác tốt hơn các ưu đãi trong các FTA trong khuôn khổ
ASEAN; các doanh nghiệp Việt Nam cần cải thiện năng lực cạnh tranh, tìm
ra cơ cấu sản phẩm hợp lý và nâng cao nhận thức về quyền lợi và nghĩa vụ
của Việt Nam khi tham gia các FTA. Các bộ, ngành trong hội nhập kinh tế
ASEAN cần nâng cao hiệu quả công tác điều phối, phối hợp; cải tiến cơ
chế tham gia các cuộc họp cấp kỹ thuật trong ASEAN để tiết kiệm nguồn
lực và ngân sách; cũng như xác định chủ trương về vấn đề đối xử đặc biệt
và khác biệt trong đàm phán các FTA trong giai đoạn từ năm 2018 trở đi.
Theo chinhphu.vn